Các tiêu bản áo dài Việt Nam ở mọi lứa tuổi được đặt tại khu “Thời trang nữ” trên tầng 4 của Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Dưới mỗi bộ trang phục đều có truyền thuyết bằng ba thứ tiếng: Việt, Anh và Pháp.
Các mẫu obo của Việt Nam ở mọi lứa tuổi có thể được tìm thấy trong mục “Thời trang nữ” trên tầng 4 của Bảo tàng Phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam. Bên dưới mỗi bộ trang phục đều có chú thích bằng ba thứ tiếng Việt, Anh và Pháp.
Người ta cho rằng áo dài có nguồn gốc từ chiếc áo giao hàng, là tiền thân của chiếc áo tứ thân (đặt ở giữa), nhưng hai thân áo nên bắt chéo nhau và không buộc vào nhau.
Áo dài có nguồn gốc từ chiếc áo phông, là tiền thân của chiếc áo tứ quý cuối (chiếc ở giữa), nhưng hai tà đầu bắt chéo nhau, không nên buộc túm lại.
Áo tứ thân may bằng vải thô, mặc ngoài áo lót, có cạp váy và thắt lưng. Vào thế kỷ 19, vua Min (Mạnh Mang Mang) đã cấm mặc trang phục này trên thảm, nhưng nó vẫn rất phổ biến ở nhiều vùng nông thôn.
Áo tứ thân làm bằng vải thô, khoác ngoài áo lót, kết hợp với váy và thắt lưng. Vào thế kỷ 19, vua Mạnh (Manh Mang) đã dùng thảm để cấm mặc váy, nhưng ở nhiều vùng nông thôn, loại trang phục này vẫn rất phổ biến.
Vào những năm 1930, họa sĩ Cát Tường đã thực hiện một cuộc cải cách căn bản của Bộ tứ phụ huynh Việt Nam. Trang phục này được gọi là Áo dài Lemur và gồm có 2 tà trước, ngang eo và quần dài bằng vải sa tanh trắng.

Theo ghi chép của bảo tàng, họa sĩ Lê Phổ đã tạo ra một chiếc áo dài cách tân, bó sát cơ thể và vạt mềm vào năm 1934. Chiếc áo dài Việt Nam về cơ bản được làm ra từ đây.
Năm 1950, chiếc áo dài được cải tiến, cổ thấp và thêm họa tiết trang trí. Năm 1960, phần áo dài được bọc giáp, giúp xóa đi những nếp nhăn từng xuất hiện ở phiên bản trước. Hình ảnh cho thấy thiết kế áo sơ mi phổ biến trong những năm 1940-60.
Vào những năm 1930, họa sĩ Cát Tường đã thực hiện một cuộc cách tân căn bản áo tứ thân ở Việt Nam. Trang phục này được gọi là Áo dài Lemur và gồm có 2 tà trước, ngang eo và quần dài bằng vải sa tanh trắng.
Theo ghi chép của bảo tàng, họa sĩ Lê Phổ đã tạo ra một chiếc áo dài cách tân, bó sát cơ thể và vạt mềm vào năm 1934. Chiếc áo dài Việt Nam về cơ bản được làm ra từ đây.
Năm 1950, chiếc áo dài được cải tiến, cổ thấp và thêm họa tiết trang trí. Năm 1960, phần áo dài được bọc giáp, giúp xóa đi những nếp nhăn từng xuất hiện ở phiên bản trước. Bức tranh cho thấy một mô hình phổ biến từ năm 1940 đến năm 1960.
Từ năm 1971 đến 1975, áo dài được làm từ sợi tổng hợp. Chiếc áo này có phần eo ngắn, vừa vặn và được trang trí hoa văn.
Từ năm 1971 đến năm 1975, áo dài được may bằng sợi tổng hợp. Chiếc áo này có hai vạt ngắn, thắt ở eo và trang trí hoa văn.
Khu vực này cũng sử dụng nhiều phong cách ngày nay để thể hiện các chất liệu, hoa văn và kiểu vải phong phú. Hình ảnh trình diễn áo dài của hai nhà tạo mẫu Ngân An và Minh Hạnh.
Khu vực này cũng trưng bày nhiều mẫu áo dài ngày nay thể hiện chất liệu, kiểu dáng và hoa văn phong phú của vải. Hình ảnh trình diễn áo dài của hai nhà tạo mẫu Ngân An và Minh Hạnh.
Ethan, du khách Úc đã chia sẻ điều này, và anh biết đến bảo tàng này qua lời giới thiệu của một người bạn. Áo dài ở Việt Nam rất đẹp, cùng với sự phát triển của thời đại, kiểu dáng này dần trở nên thời thượng hơn. Tôi nghĩ mỗi người đều có một dấu ấn lịch sử. “Ethan nói. Australia chia sẻ với mọi người rằng anh biết đến bảo tàng này qua lời giới thiệu của một người bạn. Chiếc obo của Việt Nam rất đẹp, kiểu dáng dần trở nên thời trang hơn theo thời gian.” Tôi đoán chiếc áo nào cũng có dấu ấn lịch sử. Ethan cho biết.
Ngoài áo dài, tầng 4 còn trưng bày trang phục của nhiều phụ nữ Việt Nam; trang sức, phụ kiện, dụng cụ nhai trầu và răng.
Hình chụp nón Bình Định năm 1986 – Làm bằng nón tre, nón lá và hoa văn bằng len.
Ngoài áo dài, tầng 4 còn trưng bày nhiều trang phục của phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam; trang sức, phụ kiện; dụng cụ ăn trầu và răng.- — Trong ảnh là chiếc nón lá Ping Ding làm từ vành tre, nón lá và họa tiết len năm 1986. Bảo tàng tọa lạc tại số 36 phố Lý Thường Kiệt, tham gia Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 1987. Do một lễ tân làm chủ trì. Hội trường và ba tầng là nơi tổ chức các cuộc triển lãm thường xuyên, trong đó có 25.000 mẫu vật trưng bày theo chủ đề: phụ nữ trong gia đình, phụ nữ trong lịch sử và thời trang phụ nữ.
Bảo tàng tọa lạc tại số 36 phố Lý Thông Kì và được thành lập vào năm 1987 với tên gọi Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nó bao gồm một sảnh tiếp tân và ba tầng triển lãm thường xuyên với 25.000 mẫu theo chủ đề: phụ nữ trong gia đình, phụ nữ trong lịch sử và thời trang phụ nữ.Từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều (thứ hai đến chủ nhật), mỗi ngày bảo tàng đón khoảng 300 đến 350 người. Giá vé vào cửa bảo tàng là 30.000 đồng một người. Du khách có thể thuê thiết bị kể chuyện tự động với giá 30.000 đồng.
Hình ảnh cho thấy không gian trưng bày trên tầng ba của những người phụ nữ lịch sử. Vào lúc 5 giờ chiều (thứ hai đến chủ nhật), bảo tàng đón 300-350 khách mỗi ngày. Giá vé vào cửa bảo tàng là 30.000 đồng một người. Du khách có thể thuê thiết bị tường thuật tự động 30.000 đồng.
Hình ảnh cho thấy không gian trưng bày trên tầng 3 của “Phụ nữ lịch sử”.